Voice vol.2

Tháng 9/2014

Hiroshi Iwasaki|Nhiếp ảnh gia

Chiếc máy ảnh dành cho nhiếp ảnh gia.
Chiếc máy ảnh dành cho những tác phẩm.

Dòng máy DP được đưa vào thử nghiệm dưới con mắt tinh tường của nhiếp ảnh gia studio Hiroshi Iwasaki,
người luôn theo đuổi phong cách nhiếp ảnh tinh tế và chính xác.

Ảnh : Hiroshi Iwasaki / Masumi Horiguchi


Trải nghiệm sức mạnh của DP

Hiroshi Iwasaki đã làm việc với Sigma, từ dòng ống kính SIGMA GLOBAL VISION năm 2012 cho đến việc chụp ảnh các sản phẩm của hãng. Ông cũng là một người dùng tận tụy của dòng DP Merrill. Ông luôn thực hiện các so sánh hiệu suất chuyên sâu và tuyên bố chỉ sử dụng những thiết bị được đánh giá là tốt nhất. Đầu tiên, chúng tôi đã hỏi về lần đầu tiên ông tiếp xúc với máy ảnh DP.

“Tôi có nghe nói SIGMA sản xuất máy ảnh với cảm biến chuyên dụng, tuy nhiên tôi chưa bao giờ nghe nói về DP. Tôi muốn đi sâu tìm hiểu để làm quen với các sản phẩm của họ, vì vậy tôi đã mua một chiếc DP1 Merrill và thực hiện một chuyến đi cá nhân đến đảo Yakushima ở miền nam Nhật Bản. Trước hết, tôi đã ngạc nhiên vì pin không dùng được lâu. (cười) Nhưng khi tôi xử lý hình ảnh trên máy tính khi trở về Tokyo, tôi thực sự bị bất ngờ. Nó gợi lại cảm giác về thế giới hiện ra ngay trước mắt tôi tại thời điểm tôi chụp chúng, một cảm giác mà tôi chưa từng trải qua trước đây. Khoan nói đến sự dễ dàng khi chụp và hậu kỳ, tôi đã bị choáng ngợp bởi chất lượng thuần túy của hình ảnh. Đối với tôi, đó là trải nghiệm DP của tôi.”

Yakushima, 2012 máy ảnh: SIGMA DP1 Merrill

Có những bức ảnh tôi chỉ có thể chụp bằng chiếc máy này

Trong công việc của mình và đặc biệt là nhiếp ảnh phong cảnh, Hiroshi Iwasaki luôn đảm bảo mang theo chiếc DP1 Merrill. Mặc dù được mô tả là chiếc máy ảnh dành cho những người yêu thích Sigma, nhưng đó không phải là lý do ông sử dụng nó. “Tôi hoàn toàn không đồng ý. Quan điểm của tôi là tôi sử dụng thiết bị tốt nhất cho công việc, trên hết thảy mọi thứ.

Nhất là với tư cách một chuyên gia. Về cơ bản, tôi thích pan focus (lấy nét toàn cảnh). Hiệu ứng bokeh là một cách hiệu quả để làm nổi bật một phần của hình ảnh, nhưng nó đồng nghĩa với việc loại trừ ‘khoảnh khắc’ của toàn bộ khung cảnh, trong khi đó, pan focus hoàn toàn lại mang đến cảm giác ‘phẳng’, vì vậy nó rất thách thức. Tuy nhiên, một bức ảnh chụp bằng DP lại mang lại cảm giác về chiều sâu và phối cảnh. Có lẽ lý do nằm ở độ phân giải. Lý do tôi sử dụng DP là vì tôi quyết định chỉ có nó mới đủ khả năng đáp ứng tiêu chuẩn mà tôi yêu cầu cho các bức ảnh phong cảnh của mình.”

Các máy ảnh kỹ thuật số thông thường sẽ làm bẹt các hạt cát li ti hoặc tán lá, chẳng hạn như trong kết cấu của sóng hoặc bầu trời, đường nét của những ngọn núi, hoặc trong làn không khí mờ ảo. Tuy nhiên, dù ảnh phong cảnh được in ra một cách tự nhiên thế nào, vẫn luôn có những thay đổi vô cùng tinh tế về tông màu và màu sắc.

Nhiếp ảnh chủ yếu là một hình thức biểu đạt được lựa chọn từ những thứ tốt nhất trong vô vàn loại phim, ống kính và thân máy để chụp. Sự lựa chọn thiết bị tốt nhất nên mang lại sự đa dạng hơn để tìm kiếm kết quả tốt nhất, như ông Iwasaki nói. Thực tế, điều này phản chiếu triết lý phát triển của SIGMA.

Hokkaido, 2013 máy ảnh: SIGMA DP2 Merrill

Sức mạnh của tính năng “Panchromatic” (Toàn sắc)

“Điều làm tôi ngạc nhiên đầu tiên về ‘chất lượng hình ảnh’ chắc chắn là cảm biến. Vấn đề lớn nhất với máy ảnh kỹ thuật số là sự đứt gãy trong tông màu (break in tone). Tuy nhiên, một hình ảnh từ DP lại rất ít bị như vậy. Sự chuyển đổi sắc độ rất phong phú, với các khoảng chuyển tông màu tinh tế. Tôi cảm thấy nó không bị vỡ khi hậu kỳ và nó có thể chịu đựng được mọi thao tác. Hình ảnh gần với sự ‘bền bỉ’ của phim. Nó sâu sắc, không quá khác biệt so với chất lượng của ảnh đơn sắc (monochrome)” Hiroshi Iwasaki chia sẻ.

Cảm biến hình ảnh trực tiếp Foveon X3, độc quyền của máy ảnh Sigma, là cảm biến duy nhất có hệ thống ‘phân tầng màu theo chiều dọc’, cấu trúc ba lớp dọc, với mỗi lớp hấp thụ các bước sóng ánh sáng theo thứ tự từ ngắn nhất đến dài nhất, tương tự như phim màu.

Tính năng tuyệt vời nhất là độ tinh xảo trong chi tiết được cung cấp bởi độ phân giải cao. Nhìn vào biểu đồ quang phổ màu, bạn có thể thấy, ví dụ các bước sóng màu đỏ, xanh lam và xanh lục thu được đủ thông tin phong phú từ bất kỳ dải nào. Đặc điểm “Panchromatic” này nhạy cảm với tất cả thông tin màu sắc, bao gồm cả dải màu trung gian vốn khó truyền tải, và chính điều này tạo nên nguồn gốc hình ảnh độc đáo và khó cưỡng của cảm biến Foveon.

Hiroshi Iwasaki nhận thức rõ điều này nhất khi ông điều chỉnh các thông số halftone (nửa tông) với tính năng ‘X3 Fill Light’ có trong phần mềm SIGMA Photo Pro. Ông tin rằng sự tinh tế của các chức năng điều chỉnh trong việc hoàn thiện hình ảnh mà không cần chỉnh sửa quá nhiều là rất quan trọng.

Ống kính là chìa khóa

“Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng điểm bán hàng chính là chất lượng của cảm biến. Nhưng để có được bức ảnh đẹp, ống kính mới là yếu tố quyết định. Thông thường, chúng ta quen nhìn thấy những hình ảnh chi tiết sắc nét, nên chúng ta chú ý nhiều hơn đến hiệu ứng mà ống kính mang lại cùng với độ phân giải cao. Mặc dù các cảm biến đang ở mức độ phân giải điểm ảnh cao cấp, nhưng không có ống kính nào có hiệu suất quang học phù hợp để tương xứng với nó, và nếu có, chúng sẽ cực kỳ đắt đỏ. Tuy nhiên, trong trường hợp ống kính trên DP, tôi cảm thấy mục đích là loại bỏ triệt để các quang sai (aberrations). Thật khó tin là nó được bán với giá khoảng 1000 USD. Người ta cho rằng ống kính có lẽ sẽ dựa vào đặc tính của cảm biến. Tuy nhiên, thực tế tôi cho rằng một ống kính được tối ưu hóa đóng vai trò lớn trong việc thể hiện khả năng của cảm biến ‘quái vật’ này.”

Cảm biến Merrill thế hệ thứ 2 của Foveon là một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển công nghệ. Việc bổ sung hiệu suất quang học vô song của ống kính Merrill này cho phong cách tiêu cự cố định (prime lens) vững chắc kết hợp với kích thước điểm ảnh (pixel pitch) tuyệt vời của cảm biến Merrill giúp loại bỏ quang sai và tìm ra giới hạn độ phân giải. Đặc biệt khi có dù chỉ một chút khác biệt màu sắc được phóng đại, ngay cả với độ phân giải đủ lớn, một cảm biến cũng sẽ ghi lại bất kỳ sự sai lệch nào trong hình ảnh. Ống kính DP cân bằng lý tưởng giữa cảm biến, ống kính, độ phân giải và biểu đạt nhiếp ảnh.

Quattro ở một đẳng cấp khác

Với sự phát triển của cảm biến Quattro, hiện nay chúng ta đã có thế hệ thứ 3 ‘dp2 Quattro’ trong dòng DP series. Hệ thống phân tách màu dọc truyền thống không thay đổi, nhưng lớp trên cùng (hiện là lớp màu xanh lam) mang thông tin về độ sáng và màu sắc được tích hợp với thông tin màu và các lớp dưới cùng (lớp màu xanh lục và đỏ) sao cho bốn điểm ảnh được sắp xếp như một điểm ảnh và làm tăng kích thước vật lý của điốt quang (photo-diode). Điều này cải thiện tỷ lệ S/N (tín hiệu trên nhiễu) và độ nhạy sáng.

Cảm biến Quattro giữ nguyên hình ảnh “”Panchromatic”” chất lượng cao cơ bản của cảm biến Foveon, đó là chi tiết phong phú, sống động và chân thực của “”chất Foveon””. Ngay cả với độ phân giải tăng lên, việc mở rộng dữ liệu được quản lý một cách hợp lý đồng thời bổ sung một loạt các cải tiến.

“Nói riêng về bản thân mình, tôi sẽ gắn bó chặt chẽ với cảm biến này trong một thời gian dài, nhưng tôi cảm thấy Quattro là một bước tiến vì nhiều lý do. Ngay cả khi tôi nhìn vào một tệp RAW, chất lượng cũng khác biệt. Tất nhiên, tôi chưa cảm thấy mình đã ‘tiêu hóa’ hết chúng và có những người sẽ thích chất lượng hình ảnh trước đây hơn. Tuy nhiên, tôi cảm thấy sự chuyển đổi sắc độ rất mượt mà và tinh tế, và nhìn chung gần như hoàn hảo”.

Chiếc dp2 Quattro đã thay đổi thiết kế của các cảm biến để tránh dữ liệu hình ảnh bị phình to, nhưng để xử lý lượng dữ liệu khổng lồ, cơ sở hạ tầng và bố cục cũng được tối ưu hóa.

“Lúc đầu tôi đã ngạc nhiên về ngoại hình của nó” (cười). Nhưng không giống như trước đây, tôi không còn lo ngại về nhiệt lượng tỏa ra từ thân máy khi chụp. Thời gian xử lý đã trở nên nhanh hơn. Tôi đã nghĩ đối với một chiếc máy ảnh độ phân giải cao như thế này, một chiếc dây bấm mềm (cable release) sẽ là điều cần thiết nhưng tôi rất vui vì nó đã được chuẩn bị sẵn sàng cho điều đó. Ống kính dp2 Quattro giống hệt như Merrill. Rõ ràng là những thay đổi nào đã được thực hiện.

Chim công trắng, 2014 máy ảnh: SIGMA dp2 Quattro

Những người làm về biểu đạt nhiếp ảnh sẽ thấu hiểu

“Nếu bạn chụp ảnh với dp2 Quattro, bạn sẽ hiểu tư duy cơ bản không thay đổi so với các dòng máy trước. Đó là phát triển chiếc máy ảnh tốt nhất để tạo ra một tác phẩm nhiếp ảnh hoàn chỉnh ở chất lượng cao nhất. Tôi tin rằng nhiếp ảnh là ghi lại cảm xúc của chính bạn tại thời điểm màn trập được thả. Để rồi tái tạo lại khoảnh khắc đó và từng chút một chỉnh sửa những khoảng trống chắc chắn sẽ xuất hiện, tôi tin rằng, đó là bản chất của nhiếp ảnh. Cảm giác thú vị đó trong nhiếp ảnh đã trỗi dậy trở lại với DP Merrill, và tôi cảm thấy dp2 Quattro sẽ thực tế hơn. Phải tận dụng tối đa nó. Tôi đoán đó là một công cụ tốt để có bên mình.”

Hiroshi Iwasaki

Nhiếp ảnh gia

Sinh ra tại tỉnh Shizuoka, Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp trường nhiếp ảnh, ông được giảng dạy bởi Yuzuru Akimoto và Susumu Okubo. Trở thành nhiếp ảnh gia tự do vào năm 1998, chủ yếu chụp ảnh tĩnh vật (still life) cho quảng cáo và tạp chí.

Voice vol.2

Tháng 9/2014

Hiroshi Iwasaki|Nhiếp ảnh gia

Chiếc máy ảnh dành cho nhiếp ảnh gia.
Chiếc máy ảnh dành cho những tác phẩm.

Dòng máy DP được đưa vào thử nghiệm dưới con mắt tinh tường của nhiếp ảnh gia studio Hiroshi Iwasaki,
người luôn theo đuổi phong cách nhiếp ảnh tinh tế và chính xác.

Ảnh : Hiroshi Iwasaki / Masumi Horiguchi


Trải nghiệm sức mạnh của DP

Hiroshi Iwasaki đã làm việc với Sigma, từ dòng ống kính SIGMA GLOBAL VISION năm 2012 cho đến việc chụp ảnh các sản phẩm của hãng. Ông cũng là một người dùng tận tụy của dòng DP Merrill. Ông luôn thực hiện các so sánh hiệu suất chuyên sâu và tuyên bố chỉ sử dụng những thiết bị được đánh giá là tốt nhất. Đầu tiên, chúng tôi đã hỏi về lần đầu tiên ông tiếp xúc với máy ảnh DP.

“Tôi có nghe nói SIGMA sản xuất máy ảnh với cảm biến chuyên dụng, tuy nhiên tôi chưa bao giờ nghe nói về DP. Tôi muốn đi sâu tìm hiểu để làm quen với các sản phẩm của họ, vì vậy tôi đã mua một chiếc DP1 Merrill và thực hiện một chuyến đi cá nhân đến đảo Yakushima ở miền nam Nhật Bản. Trước hết, tôi đã ngạc nhiên vì pin không dùng được lâu. (cười) Nhưng khi tôi xử lý hình ảnh trên máy tính khi trở về Tokyo, tôi thực sự bị bất ngờ. Nó gợi lại cảm giác về thế giới hiện ra ngay trước mắt tôi tại thời điểm tôi chụp chúng, một cảm giác mà tôi chưa từng trải qua trước đây. Khoan nói đến sự dễ dàng khi chụp và hậu kỳ, tôi đã bị choáng ngợp bởi chất lượng thuần túy của hình ảnh. Đối với tôi, đó là trải nghiệm DP của tôi.”

Yakushima, 2012 máy ảnh: SIGMA DP1 Merrill

Có những bức ảnh tôi chỉ có thể chụp bằng chiếc máy này

Trong công việc của mình và đặc biệt là nhiếp ảnh phong cảnh, Hiroshi Iwasaki luôn đảm bảo mang theo chiếc DP1 Merrill. Mặc dù được mô tả là chiếc máy ảnh dành cho những người yêu thích Sigma, nhưng đó không phải là lý do ông sử dụng nó. “Tôi hoàn toàn không đồng ý. Quan điểm của tôi là tôi sử dụng thiết bị tốt nhất cho công việc, trên hết thảy mọi thứ.

Nhất là với tư cách một chuyên gia. Về cơ bản, tôi thích pan focus (lấy nét toàn cảnh). Hiệu ứng bokeh là một cách hiệu quả để làm nổi bật một phần của hình ảnh, nhưng nó đồng nghĩa với việc loại trừ ‘khoảnh khắc’ của toàn bộ khung cảnh, trong khi đó, pan focus hoàn toàn lại mang đến cảm giác ‘phẳng’, vì vậy nó rất thách thức. Tuy nhiên, một bức ảnh chụp bằng DP lại mang lại cảm giác về chiều sâu và phối cảnh. Có lẽ lý do nằm ở độ phân giải. Lý do tôi sử dụng DP là vì tôi quyết định chỉ có nó mới đủ khả năng đáp ứng tiêu chuẩn mà tôi yêu cầu cho các bức ảnh phong cảnh của mình.”

Các máy ảnh kỹ thuật số thông thường sẽ làm bẹt các hạt cát li ti hoặc tán lá, chẳng hạn như trong kết cấu của sóng hoặc bầu trời, đường nét của những ngọn núi, hoặc trong làn không khí mờ ảo. Tuy nhiên, dù ảnh phong cảnh được in ra một cách tự nhiên thế nào, vẫn luôn có những thay đổi vô cùng tinh tế về tông màu và màu sắc.

Nhiếp ảnh chủ yếu là một hình thức biểu đạt được lựa chọn từ những thứ tốt nhất trong vô vàn loại phim, ống kính và thân máy để chụp. Sự lựa chọn thiết bị tốt nhất nên mang lại sự đa dạng hơn để tìm kiếm kết quả tốt nhất, như ông Iwasaki nói. Thực tế, điều này phản chiếu triết lý phát triển của SIGMA.

Hokkaido, 2013 máy ảnh: SIGMA DP2 Merrill

Sức mạnh của tính năng “Panchromatic” (Toàn sắc)

“Điều làm tôi ngạc nhiên đầu tiên về ‘chất lượng hình ảnh’ chắc chắn là cảm biến. Vấn đề lớn nhất với máy ảnh kỹ thuật số là sự đứt gãy trong tông màu (break in tone). Tuy nhiên, một hình ảnh từ DP lại rất ít bị như vậy. Sự chuyển đổi sắc độ rất phong phú, với các khoảng chuyển tông màu tinh tế. Tôi cảm thấy nó không bị vỡ khi hậu kỳ và nó có thể chịu đựng được mọi thao tác. Hình ảnh gần với sự ‘bền bỉ’ của phim. Nó sâu sắc, không quá khác biệt so với chất lượng của ảnh đơn sắc (monochrome)” Hiroshi Iwasaki chia sẻ.

Cảm biến hình ảnh trực tiếp Foveon X3, độc quyền của máy ảnh Sigma, là cảm biến duy nhất có hệ thống ‘phân tầng màu theo chiều dọc’, cấu trúc ba lớp dọc, với mỗi lớp hấp thụ các bước sóng ánh sáng theo thứ tự từ ngắn nhất đến dài nhất, tương tự như phim màu.

Tính năng tuyệt vời nhất là độ tinh xảo trong chi tiết được cung cấp bởi độ phân giải cao. Nhìn vào biểu đồ quang phổ màu, bạn có thể thấy, ví dụ các bước sóng màu đỏ, xanh lam và xanh lục thu được đủ thông tin phong phú từ bất kỳ dải nào. Đặc điểm “Panchromatic” này nhạy cảm với tất cả thông tin màu sắc, bao gồm cả dải màu trung gian vốn khó truyền tải, và chính điều này tạo nên nguồn gốc hình ảnh độc đáo và khó cưỡng của cảm biến Foveon.

Hiroshi Iwasaki nhận thức rõ điều này nhất khi ông điều chỉnh các thông số halftone (nửa tông) với tính năng ‘X3 Fill Light’ có trong phần mềm SIGMA Photo Pro. Ông tin rằng sự tinh tế của các chức năng điều chỉnh trong việc hoàn thiện hình ảnh mà không cần chỉnh sửa quá nhiều là rất quan trọng.

Ống kính là chìa khóa

“Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng điểm bán hàng chính là chất lượng của cảm biến. Nhưng để có được bức ảnh đẹp, ống kính mới là yếu tố quyết định. Thông thường, chúng ta quen nhìn thấy những hình ảnh chi tiết sắc nét, nên chúng ta chú ý nhiều hơn đến hiệu ứng mà ống kính mang lại cùng với độ phân giải cao. Mặc dù các cảm biến đang ở mức độ phân giải điểm ảnh cao cấp, nhưng không có ống kính nào có hiệu suất quang học phù hợp để tương xứng với nó, và nếu có, chúng sẽ cực kỳ đắt đỏ. Tuy nhiên, trong trường hợp ống kính trên DP, tôi cảm thấy mục đích là loại bỏ triệt để các quang sai (aberrations). Thật khó tin là nó được bán với giá khoảng 1000 USD. Người ta cho rằng ống kính có lẽ sẽ dựa vào đặc tính của cảm biến. Tuy nhiên, thực tế tôi cho rằng một ống kính được tối ưu hóa đóng vai trò lớn trong việc thể hiện khả năng của cảm biến ‘quái vật’ này.”

Cảm biến Merrill thế hệ thứ 2 của Foveon là một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển công nghệ. Việc bổ sung hiệu suất quang học vô song của ống kính Merrill này cho phong cách tiêu cự cố định (prime lens) vững chắc kết hợp với kích thước điểm ảnh (pixel pitch) tuyệt vời của cảm biến Merrill giúp loại bỏ quang sai và tìm ra giới hạn độ phân giải. Đặc biệt khi có dù chỉ một chút khác biệt màu sắc được phóng đại, ngay cả với độ phân giải đủ lớn, một cảm biến cũng sẽ ghi lại bất kỳ sự sai lệch nào trong hình ảnh. Ống kính DP cân bằng lý tưởng giữa cảm biến, ống kính, độ phân giải và biểu đạt nhiếp ảnh.

Quattro ở một đẳng cấp khác

Với sự phát triển của cảm biến Quattro, hiện nay chúng ta đã có thế hệ thứ 3 ‘dp2 Quattro’ trong dòng DP series. Hệ thống phân tách màu dọc truyền thống không thay đổi, nhưng lớp trên cùng (hiện là lớp màu xanh lam) mang thông tin về độ sáng và màu sắc được tích hợp với thông tin màu và các lớp dưới cùng (lớp màu xanh lục và đỏ) sao cho bốn điểm ảnh được sắp xếp như một điểm ảnh và làm tăng kích thước vật lý của điốt quang (photo-diode). Điều này cải thiện tỷ lệ S/N (tín hiệu trên nhiễu) và độ nhạy sáng.

Cảm biến Quattro giữ nguyên hình ảnh “”Panchromatic”” chất lượng cao cơ bản của cảm biến Foveon, đó là chi tiết phong phú, sống động và chân thực của “”chất Foveon””. Ngay cả với độ phân giải tăng lên, việc mở rộng dữ liệu được quản lý một cách hợp lý đồng thời bổ sung một loạt các cải tiến.

“Nói riêng về bản thân mình, tôi sẽ gắn bó chặt chẽ với cảm biến này trong một thời gian dài, nhưng tôi cảm thấy Quattro là một bước tiến vì nhiều lý do. Ngay cả khi tôi nhìn vào một tệp RAW, chất lượng cũng khác biệt. Tất nhiên, tôi chưa cảm thấy mình đã ‘tiêu hóa’ hết chúng và có những người sẽ thích chất lượng hình ảnh trước đây hơn. Tuy nhiên, tôi cảm thấy sự chuyển đổi sắc độ rất mượt mà và tinh tế, và nhìn chung gần như hoàn hảo”.

Chiếc dp2 Quattro đã thay đổi thiết kế của các cảm biến để tránh dữ liệu hình ảnh bị phình to, nhưng để xử lý lượng dữ liệu khổng lồ, cơ sở hạ tầng và bố cục cũng được tối ưu hóa.

“Lúc đầu tôi đã ngạc nhiên về ngoại hình của nó” (cười). Nhưng không giống như trước đây, tôi không còn lo ngại về nhiệt lượng tỏa ra từ thân máy khi chụp. Thời gian xử lý đã trở nên nhanh hơn. Tôi đã nghĩ đối với một chiếc máy ảnh độ phân giải cao như thế này, một chiếc dây bấm mềm (cable release) sẽ là điều cần thiết nhưng tôi rất vui vì nó đã được chuẩn bị sẵn sàng cho điều đó. Ống kính dp2 Quattro giống hệt như Merrill. Rõ ràng là những thay đổi nào đã được thực hiện.

Chim công trắng, 2014 máy ảnh: SIGMA dp2 Quattro

<div class=""c-content c-content–editor with-e

Thông tin

Hệ thống nhà phân phối

Dịch vụ khách hàng

Hỏi đáp

Kiểm tra và bảo trì

Máy ảnh tương thích

firmware download

Điều khoản

Chính sách quyền riêng tư

Điều khoản sử dụng

Chính sách truyền thông MXH

Chính sách môi trường

Chính sách đảm bảo chất lượng

Mạng xã hội

Youtube

© 2025 Bản quyền thuộc về SIGMA Việt Nam